
Giải mã hình tượng rồng thời Lý
Có không ít ý kiến cho rằng con rồng thời Lý mang ảnh hưởng từ nghệ thuật tạo hình của Champa, thậm chí có kiểu suy diễn rất trái khoáy là trông giống con Naga của Thái Lan bây giờ mà suy ra là ảnh hưởng từ Champa. Vậy sự thật thế nào?
Rồng ở các nước Đông Nam Á
Thứ nhất, trong văn hóa các nước Đông Nam Á khác không có rồng, từ Champa, Khmer cho đến Thái Lan, Miến Điện, ở những nước này ban đầu chỉ có 2 hình tượng gần với rồng Đông Á nhất là Naga và Makara. Mặc dù vậy hình ảnh 2 con linh thú này vào cùng thời ký rất khác với con rồng Lý.
Con Naga là hình ảnh rắn hổ mang nhiều đầu, có mang lớn, răng vuông đều hoặc không há miệng, du nhập hình tượng makara của Ấn Độ, con makara của Khmer hay Champa cũng thường được thể hiện phần đầu lớn, thân ngắn, có vòi voi, có mào và thường thể hiện với nhiều đồ án khác nhau.
Mãi sau này từ thế kỷ 13-14, khi người Thái di chuyển xuống khu vực Đông Nam Á với sức ép từ các cuộc xâm lăng của Mông Cổ và sau đó là sự ảnh hưởng mạnh hơn từ nhà Minh và các nhóm người Hoa minh hương chạy khỏi nhà Thanh, hình tượng con Naga và Makara mới biến chuyển nhiều hơn và dần rồng hóa.
Con Naga dạng 1 đầu 1 thân trở nên phổ biến, cái đầu nó dần giống đầu rồng, lông lá, có nhiều bờm, râu cằm, cái màng rắn nhỏ lại thậm chí biến mất hẳn, miệng há rộng với hàm răng nhọn hoắt, trên đầu mọc lên cái sừng nhọn hoắt con Makara cũng có sự biến chuyển gần như vậy.
Trong các linh thú của Thái Lan hay Myanmar xuất hiện rất nhiều hình tượng linh thú mang ảnh hưởng của TQ kết hợp với bản địa. Tuy nhiên về cơ bản chúng vẫn không phải là con rồng như các nước Đông Á. Nếu so sánh con Naga vào thời kỳ muộn này với con rồng Lý vẫn khác nhau nhiều, điều này sẽ nói ở phần sau.






Hình tượng rồng thời Lý
Thứ hai, hình tượng con rồng thời Lý đã thai nghén từ thời Đinh – Tiền Lê chứ không cần phải chờ tới lúc nhà Lý bắt tù nhân Champa để làm việc, điều mà không được ghi lại trong sử sách để con cháu suy diễn rằng hình tượng rồng Lý có bàn tay của nghệ nhân Champa.
Ngay cả nhiều hình tượng khác vốn được suy diễn là ảnh hưởng của Champa do nhiều người chỉ biết trên thế giới thời xưa có 3 nước là Đại Viêt, Trung Quốc, Champa mà bảo ảnh hưởng từ TQ thì lại dỗi hờn thôi thì cho là ảnh hưởng từ Champa đi.
Quay trở lại với hình tượng con rồng Lý và những ngộ nhận cơ bản và sự thật:
- Rồng thời Lý thân trơn không có vảy – Sai. Từ thời Ngô, Đinh, Tiền Lê rồng đã có vảy. Con rồng có thể là hình tượng “thần thánh hóa” từ con cá sấu hay con rắn hay con cá chép, dù là từ con gì đi nữa thì nó đều có vảy, ở những hình rồng thời Lý lớn như đầu rồng trên mái, rồng trên thành bậc, ở cột đá chùa Dạm đều thể hiện hình ảnh vảy rồng rõ ràng. Có thể hiểu việc để thân trơn trên nhiều hiện vật khác là 1 sự giản lược, hoặc đôi khi là phần vảy đã bị bào mòn. Trên các hình tượng rồng lớn hơn, có nhiều “đất múa võ hơn” thì rồng Lý không chỉ có vảy mà vảy còn được “biểu diễn” một cách rất chi tiết, cầu kỳ, nghệ thuật hơn hẳn các con rồng khác.
- Rồng thời Lý không có sừng? Sai. Cái hình ω mà một số người gọi là biểu tượng của mưa gió sấm sét chính là sừng của nó (việc gọi là biểu tượng mưa gió sấm sét vốn hoàn toàn không có cơ sở mà chỉ là một cách lý giải xuông thiếu sự quan sát tỉ mỉ), việc thể hiện chi tiết này trên các bức phù điêu thường gây nhầm lẫn vì sự giản lược của nó cũng như làm ta cảm giác chỉ có 1 cái ω trên đầu nó, tuy nhiên khi xem xét trên hiện vật dạng tượng tròn thì nó nằm ở 2 bên đầu, vị trí của cái sừng, trong 1 số hình tượng điêu khắc khác nó cũng được thể hiện rõ ràng là cái sừng.
- Cái “loằng ngoằng” phía trên miệng con rồng là mào lửa – Sai. Con rồng trong văn hóa Đông Á nói chung và Việt Nam nói riêng đều là rồng nước, là đại diện cho mưa gió, sông nước, biển cả. Trong Tây Du Ký, Long Vương là vị thần của biển cả, không ít lần Tôn Ngộ Không phải nhờ Long Vương làm mưa. Trong nghệ thuật kiến trúc Việt Nam, hình tượng xi vẫn với cái đầu rồng đặt trên bờ nóc như vị thần trông coi công trình khỏi hỏa hoạn. Như vậy nếu bảo con rồng Lý có cái mào lửa không khác gì bảo nó đi đốt nhà.
Vậy thì cái “mào lửa” ấy thực sự là cái gì? Đấy chính là điểm chung của các con rồng Đông Á cùng thời kỳ ấy và còn thấy nhiều về sau. Đó là cái vòi. Cái vòi rồng. Ắt hẳn không ít người từng nghe nói đến lốc xoáy còn gọi là vòi rồng nhưng liệu có mấy ai biết con rồng từng có vòi? Những hình tượng rồng này đều có xuất xứ ảnh hưởng từ hình tượng con Makara trong Phật giáo Ấn Độ.
Từ văn hóa Hindu và Phật giáo Ấn Độ…
Loài thú huyền thoại makara trong văn hóa Ấn Độ chuyên sống ở dưới nước. Ban sơ, makara thường có hình đầu thú (đầu voi, đầu cá sấu,…), phần sau là đuôi cá, cũng có khi là đuôi công trống2. Makara là vật cưỡi của Ganga – chúa tể sông Hằng và Varuna – chúa tể biển cả. Makara trong tiếng Sanscrit nghĩa là một loài rồng biển, dịch sang tiếng Anh là “sea-dragon”, các tiếng trong nhánh Hán – Tạng gọi là “thủy tinh”3, người Việt hiện nay thường gọi là “thủy quái”, còn trong tiếng Hindu thì có nghĩa là con cá sấu. Trong các bức phù điêu ở nhiều đền thờ Hindu giáo, hàng đoàn makara nối đuôi nhau chạy như dòng chảy miên viễn của sông Hằng. Nó là biểu tượng của con sông này, và rộng hơn là biểu tượng của nước.
Trích Trần Trọng Dương
Việc thờ thần Makara đã được truyền từ Hindu giáo vào Phật giáo Ấn Độ. Trong ý nghĩa biểu trưng của phái Mật tông, đây là con vật cưỡi của Mantra Vam, tương ứng với yếu tố nước, là biểu tượng của những cơn mưa lành.
…đến xi vẫn Trung Hoa
Cùng với sự truyền bá Phật giáo, makara đã xuất hiện ở khắp Đông Nam Á và Đông Á. Makara vào Trung Hoa quãng đời nhà Hán, được dân gian hóa bằng các huyền thoại, trước khi đi vào cung đình. Sách Thái Bình ngự lãm thuật lại sự tích như sau:
Vào đời Hán, sau khi điện Bách Lương bị hỏa hoạn, có người thầy mo đất Việt nói rằng: ‘ngoài biển có con ngư cù (rồng cá), đuôi giống đuôi chim xi, thúc sóng mà làm mưa’, bèn tạc tượng con thú ấy để yểm hỏa tai.
Hán Vũ đế là người chính thức đưa loài linh thần của Phật giáo này vào văn hóa cung đình bằng việc đắp hình trên các nóc điện, coi đó như vị thần trừ hỏa hoạn, và định danh cho nó là xi vẫn. Hình ảnh đuôi công trống được thay thế bằng đuôi chim cú (chim xi). Người Trung Quốc cũng nhanh chóng Hoa hóa nó theo nhiều cách khác nhau (tên gọi, hình dáng…), và hầu như quên đi cái tên Ấn Độ cũng như nguồn gốc Phật giáo của nó.
Trần Trọng Dương
Vật khảo cổ sớm nhất hiện nay về con xi vẫn được khắc vào năm 134. Từ Hán đến Đường, xi vẫn giữ hình dạng nguyên thủy – đầu rồng, đuôi chim xi. Đến thời Nam Bắc triều, xi vẫn thường được đắp cùng các vân mây ở Long Môn. Từ vãn Đường, đầu rồng (thú) với miệng há rộng được nhấn mạnh, còn đuôi được cách điệu thành dạng khí mây bốc lên trời. Từ đời Tống Minh trở về sau, xi vẫn được Hoa hóa một lần nữa trong huyền thoại long sinh cửu tử. Kể từ đây, hình tượng con xi vẫn mang dáng dấp rồng (đầu, thân, đuôi) ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Có khi con xi vẫn – rồng này còn được tạc cùng một thanh kiếm (hay kích) – biểu tượng của sấm sét và mưa gió như là một điệp thức biểu tượng về trừ hỏa-làm mưa, hay cao hơn nữa là biểu tượng uy quyền – trừ tà – trừ ma.
Như vậy, xi vẫn là một con vật huyền thoại được dùng trang trí trên nóc, mái các công trình kiến trúc đời cổ, với ý nghĩa tượng trưng cho việc yểm trừ hỏa tai. Việc xi vẫn thường được đắp ở hai bên đầu kìm hay góc điện, nơi nước mưa trôi xuống, hẳn có mục đích thực dụng bởi nó giúp tránh thấm dột.
Trần Trọng Dương

Tạo hình rồng trong văn hóa Á Đông xưa
Như vậy hình tượng con rồng nước Đông Á ban đầu đã bắt đầu xu hướng tiếp nhận hình tượng con Makara được thể hiện bởi cái đầu có vòi và ngà như con voi.
Muộn nhất từ thời Đường đã thấy hình tượng đầu rồng có vòi và ngà. Cái vòi thường được thể hiện dẹt có nhiều khía ngang, hoặc tròn như vòi voi. Tuy nhiên cái vòi của con rồng TQ dưới thời Đường, Tống hay Tây Hạ thường ngắn, đến thời Nguyên thì lại dài hẳn ra do ảnh hưởng từ Tây Tạng. Hình tượng con rồng có vòi dài là Tây Tạng, Đại Lý và dài nhất là con rồng thời Lý của Việt Nam.
Mình xin được phép lộng ngôn mà nói rằng con rồng Lý là đỉnh cao trong nghệ thuật tạo hình rồng Đông Á với những quy chuẩn rõ ràng rành mạch, không chỉ có cái vòi dài nhất mà phần thân dài nhất, nhịp nhàng uyển chuyển mà vẫn đầy uy lực. Con rồng Lý còn thể hiện rõ ràng tính chất Phật Giáo của nó với mô típ phổ biến là rồng cuộn trong lá đề. Ngay cả phần vòi của nó cũng được cuộn trong hình tượng lá đề, điều này có thể nhận thấy khi so sánh các hình tượng lá đề và phần bao quanh vòi con rồng Lý.\
Ngoài ra còn 1 số điểm tương đồng giữa rồng thời Lý với các con rồng Đông Á khác cùng thời kỳ như có 4 chân, mỗi chân có 3-5 móng, có bờm dài, râu dài, chân mày cuộn sóng hình số 3…
Tuy nhiên, nếu ở nước khác, con rồng thường được thể hiện phóng khoáng, có nhiều hình dạng khác nhau cùng lúc thì con rồng Lý lại mẫu mực, đồng nhất hơn, thể hiện tính trang trọng uy quyền của nó.
Sai lầm cơ bản trong nghiên cứu tìm hiểu ở VN là sự so sánh không đồng đại, và so sánh tiểu tiết, không nhìn tổng quát, tổng hợp dẫn đến nhiều sai lầm. Như nhìn cái mào hay cái sừng của con naga Thái Lan mãi sau này giống như cái vòi của con rồng Lý và vội vàng đưa đến kết luận là ảnh hưởng từ Champa do tù binh Champa tạo nên?!?
Mình xin khẳng định theo ý kiến của mình, con rồng Việt Nam thời Lý cũng như các thời khác sau này hay chính nền văn hóa VN nằm trên dòng chảy của nền văn hóa văn minh Đông Á, nhưng những sản phẩm là do người Việt tạo ra, mang những đường nét từ bàn tay người Việt và dấu ấn của người Việt.
Nếu như các hình tượng kinnari/kinnara trong văn hóa Champa thể hiện khuôn mặt của người Champa như môi dày, mũi to, bè, khuôn mặt thon, hốc mắt hơi sâu, là khuôn mặt của những người phía nam thì kalavinka (tương tự kinnari) trong hình tượng tạo hình thời Lý Trần lại có khuôn mặt bầu bĩnh, môi mỏng, mũi nhỏ hơn, mang khuôn mặt người Việt, thể hiện cái quan niệm thẩm mỹ của người Việt bấy giờ.
Một số hình ảnh hiện vật về rồng Việt:





1 thought on “Giải mã hình tượng rồng thời Lý”
Bài viết so sánh khá hay , đồng quan điểm với tác giả , Rồng thời lý mang nhiều ảnh hưởng của phật giáo và tư tưởng dân gian người việt